Thứ sáu, 26/04/2024
Bắc giang 32 °C / 26 - 31 °C
Hotline: +84.0204.3 856 624

Chính trị
Chia sẻ:
icon
0.5 1.0 1.5

Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) : Mở rộng phạm vi điều chỉnh ở khu vực ngoài nhà nước

Cập nhật: 20:22 ngày 09/11/2017
(BGĐT) - Tiếp tục chương trình làm việc kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV, chiều 9-11, Quốc hội nghe tờ trình và Báo cáo thẩm tra về dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi). Sau đó, các đại biểu thảo luận tại tổ về dự án Luật này. 

{keywords}

Đại biểu Lê Thị Thu Hồng, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Giang phát biểu thảo luận tại tổ.

Tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp

Trình bày tờ trình, Tổng thanh tra Chính phủ Lê Minh Khái cho biết, sau 10 năm thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, công tác phòng, chống tham nhũng đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Luật Phòng, chống tham nhũng đã từng bước giúp tạo ra môi trường thể chế ngày càng công khai, minh bạch; tăng cường sự tham gia của người dân vào công tác phòng, chống tham nhũng; cơ chế kiểm soát đối với cán bộ, công chức, viên chức và chế độ công vụ cũng ngày càng được cải thiện; việc xử lý người có hành vi tham nhũng và tài sản tham nhũng cũng được chú trọng và nâng cao hiệu quả; bộ máy cơ quan phòng, chống tham nhũng bước đầu được củng cố, kiện toàn.

Tuy nhiên, tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp, việc phát hiện, xử lý chưa đáp ứng yêu cầu, số vụ việc, vụ án tham nhũng được phát hiện còn ít, một số vụ việc xử lý kéo dài, thu hồi tài sản tham nhũng đạt kết quả thấp, gây tâm lý bức xúc và hoài nghi trong xã hội về quyết tâm phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta. Trước tình hình đó đặt ra yêu cầu phải sửa đổi Luật Phòng, chống tham nhũng 2005 để phù hợp với sự phát triển KT-XH và đồng bộ với hệ thống pháp luật có liên quan. Theo đó, dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) gồm 11 Chương với 129 điều. Dự thảo tiếp tục kế thừa Luật hiện hành khi quy định: “Luật này quy định về phòng ngừa, phát hiện, xử lý người có hành vi tham nhũng và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong phòng, chống tham nhũng”. 

Bên cạnh đó, tại Chương VII (về vai trò và trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng) và Chương VIII (về phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh doanh), dự thảo Luật quy định theo hướng mở rộng việc áp dụng Luật đối với các tổ chức xã hội và doanh nghiệp ngoài nhà nước. Đồng thời, dự thảo Luật cũng được chỉnh lý để làm rõ nguyên tắc sau: Căn cứ vào các luật có liên quan về tổ chức và hoạt động của mình (Luật Doanh nghiệp, Luật Các tổ chức tín dụng và các đạo luật chuyên ngành khác), Nhà nước bắt buộc nhóm chủ thể này tự quy định và tự tổ chức thực hiện biện pháp phòng, chống tham nhũng cho phù hợp. Các cơ quan quản lý nhà nước chỉ tiến hành thanh tra, kiểm tra việc áp dụng các quy định của Luật khi có căn cứ theo quy định của pháp luật.

Thu hẹp đối tượng kê khai tài sản ở mức hợp lý để tập trung giám sát hiệu quả

Trình bày Báo cáo thẩm tra dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga nêu rõ, hồ sơ dự án Luật cơ bản đáp ứng yêu cầu về thủ tục theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Về đối tượng kê khai tài sản, thu nhập, Chính phủ trình Quốc hội 2 phương án: Phương án 1: mở rộng phạm vi người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập đối với tất cả công chức khi được bổ nhiệm vào ngạch (bao gồm cả công chức xã, phường, thị trấn). Phương án 2: thu hẹp phạm vi người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập, chỉ áp dụng với đối tượng có hệ số phụ cấp chức vụ từ 0,7 trở lên ở T.Ư, từ 0,9 trở lên ở địa phương và một số đối tượng có hệ số phụ cấp chức vụ dưới 0,7 trong một số lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao. Ủy ban Tư pháp chưa đồng tình với phương án 1 vì  theo quy định hiện hành thì đối tượng phải kê khai được áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức có hệ số phụ cấp chức vụ từ 0,2 trở lên và việc kê khai được thực hiện hằng năm. Tuy nhiên, qua giám sát cho thấy, việc kê khai tài sản, thu nhập thời gian qua còn hình thức, hiệu quả thấp, chưa kiểm soát được tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do số người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập quá lớn, vượt quá khả năng của các cơ quan có trách nhiệm kiểm soát việc kê khai tài sản, thu nhập.

Trường hợp thu hẹp đối tượng kê khai như đề xuất tại phương án 2 của dự thảo Luật thì cần làm rõ lý do để phân biệt việc lựa chọn người có nghĩa vụ kê khai ở trung ương thì có hệ số phụ cấp chức vụ từ 0,7 trở lên nhưng ở địa phương lại quy định từ 0,9 trở lên. Do đó, Uỷ ban Tư pháp cho rằng, trước mắt nên giữ nguyên đối tượng kê khai tài sản, thu nhập hoặc thu hẹp ở mức độ hợp lý, tập trung vào các đối tượng giữ vị trí quan trọng ở T.Ư, địa phương, những khu vực nguy cơ tham nhũng cao để bảo đảm tập trung nguồn lực tiến hành kiểm soát có hiệu quả hơn, tránh hình thức như thời gian vừa qua.

Cùng ngày, các đại biểu tiến hành thảo luận tại tổ về dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi). Tại tổ số 13 gồm các đoàn Bắc Giang, Cà Mau và Nam Định đã có 7 ý kiến phát biểu, đa số tán thành với cơ quan đề xuất xây dựng luật và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, đồng thời góp ý vào một số nội dung. Đại biểu Lê Thị Thu Hồng, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội Bắc Giang nêu quan điểm: Đây là dự án luật quan trọng liên quan đến nhiều luật khác, để tránh xung đột, chồng chéo cần rà soát, so sánh với Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức... 

Cụ thể, dự thảo quy định 12 hành vi, do đó việc giải thích từ ngữ phải bám sát vào các hành vi nêu trên. Khoản 2, Điều 23 quy định những điều cán bộ, công chức, viên chức không được làm như cửa quyền, hách dịch..., nội dung này đã quy định tại Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức, vì vậy không nên đưa vào Luật này. Điều 33 về vị trí công tác và thời hạn luân chuyển có quy định đủ 2 năm (24 tháng). Trên thực tế, từ trước đến nay, trong nhiều lĩnh vực công tác có quy định thời hạn 3 năm (36 tháng). Do đó, nội dung này nên sửa lại là 3 năm cho thống nhất với các văn bản đã quy định trước đó. Điểm b, khoản 2, Điều 43 quy định việc kê khai tài sản bổ sung phải hoàn thành chậm nhất trước 31-12 hằng năm, quy định như vậy chưa kịp thời, đề nghị nên sửa là cần kê khai bổ sung khi có biến động tài sản hoặc khi thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm. 

Văn Hân - TS (t/h)

Chia sẻ:

Ý kiến bạn đọc (0)

Bình luận của bạn...