|
Anh Nguyễn Quốc Vương và các bạn sinh viên Nhật Bản. Ảnh nhân vật cung cấp. |
Thưa anh, theo dõi những bài viết của anh trên báo chí và mạng xã hội thấy rằng, mặc dù là người nghiên cứu sâu về giáo dục lịch sử nhưng anh lại rất quan tâm đến giáo dục trẻ em, nhất là giáo dục trẻ em trong gia đình. Lý do nào vậy?
Chuyên ngành của tôi là giáo dục lịch sử. Ở Nhật Bản cũng như ở Việt Nam, giáo dục lịch sử trong trường học chỉ chính thức bắt đầu từ khoảng lớp 3 hoặc lớp 4 trở đi, nghĩa là nghiên cứu của tôi thường chỉ giới hạn trong phạm vi trường học.
Tuy nhiên, càng tìm hiểu giáo dục Nhật Bản và so sánh nó với giáo dục Việt Nam, tôi càng nhận ra giáo dục gia đình có vai trò quan trọng như thế nào đối với sự phát triển của con người và sự tiến bộ của cộng đồng. Nó đặt nền tảng và tương tác, thúc đẩy giáo dục trường học ở nhiều phương diện.
Có lẽ vì thế mà anh tâm đắc khi dịch cuốn "Sổ tay giáo dục gia đình Nhật Bản" sang tiếng Việt đang được nhiều người quan tâm?
Ngoài lý do có tính “học thuật” như trên thì còn một lý do giống như là "nhân duyên” có tính riêng tư. Kể từ khi đón vợ sang đoàn tụ trên đất Nhật và vợ mang bầu, tôi bắt đầu chú ý nhiều hơn tới giáo dục gia đình và tìm kiếm, đọc sách của người Nhật viết về giáo dục gia đình. Trong quá trình đó, tôi tìm thấy “Sổ tay giáo dục gia đình” do Bộ Giáo dục, văn hóa, thể thao, khoa học và công nghệ Nhật Bản biên soạn.
Cuốn sách này được in và phát miễn phí cho các gia đình có nhu cầu, cũng như đăng tải công khai toàn văn trên trang nhà của Bộ. Đọc nó tôi kinh ngạc khi phát hiện ra có những thứ bản thân vốn mặc nhiên coi rằng là đúng thực ra lại là phi khoa học hoặc nhận ra dưới góc độ khoa học giáo dục, có những điều giản dị trong cuộc sống thường ngày nhưng lại vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của trẻ em.
Chính vì vậy mà sau khi đọc xong cuốn sách, tôi đã quyết định dịch nó sang tiếng Việt với mong muốn chia sẻ những tri thức khoa học ở đây cho tất cả mọi người.
Trong lời nói đầu cuốn sách này, anh viết:"Cuốn sách đã "khai sáng" cho tôi rất nhiều điều về giáo dục gia đình". Vậy anh có thể chia sẻ thêm với độc giả về sự "khai sáng" ấy như thế nào?
Có rất nhiều điểm thú vị nhưng ở đây xin tạm kể mấy ý. Thứ nhất là chuyện phê bình, trách phạt con. Thường thì chúng ta đều dễ dàng thống nhất rằng khi con hư thì phải trách phạt nhưng quan sát kỹ sẽ thấy người lớn xung quanh chúng ta trách phạt trẻ con thường chỉ xuất phát từ cảm xúc của bản thân. Nghĩa là chúng ta trách mắng hay phạt trẻ con khi cảm thấy bực tức, không bằng lòng, hoặc nổi giận trước hành vi, lời nói của trẻ.
Chúng ta phạt mà không hề chú ý làm cho trẻ hiểu tại sao việc phạt đó lại cần thiết. Ở đó cuốn sách đưa ra lời cảnh báo “trách mắng thiên về cảm tính không phải là dạy con”. Sự trách mắng cảm tính đó cũng rất dễ trở thành sự ngược đãi và làm tổn thương sâu sắc trẻ.
Thứ hai là những phân tích về tầm quan trọng của trải nghiệm thiên nhiên đối với sự trưởng thành của con người. Sách viết “Điều quan trọng trong đời người là học giữa thiên nhiên”. Tôi nghĩ đó là điều giản dị nhưng sâu sắc. Nếu chúng ta liên tưởng đến hiện trạng học thêm và bài vở quá tải của học sinh xung quanh, chúng ta sẽ thấy điều đó có ý nghĩa quan trọng thế nào.
Cuối cùng, cuốn sách gợi cho tôi những ý nghĩ thú vị về mẫu hình người công dân hành động. Cuốn sách nói rằng việc nuôi dạy con cái không thể trông chờ thuần túy vào nỗ lực của bố, mẹ hay gia đình. Trẻ em lớn lên trong sự tương tác với môi trường xã hội ở xung quanh như trường học, địa phương. Vì vậy muốn giáo dục trẻ thì mọi người phải hợp tác với nhau, phải cho trẻ cơ hội được tham gia vào xã hội, đóng góp cho xã hội.
Học tập lịch sử phải hướng trước tiên vào việc hình thành nhận thức lịch sử khoa học và phẩm chất công dân thay vì những điều to tát, trừu tượng, xa xôi. Một nền giáo dục nếu không tạo ra được những công dân hành động thì khó có thể nói là thành công”.
Nguyễn Quốc Vương |
Quan trọng hơn, trước tiên bố mẹ phải là người tiên phong, gương mẫu trong việc nỗ lực tham gia vào xã hội, cải tạo môi trường tự nhiên và xã hội ở xung quanh cho nó ngày một tốt đẹp lên để tạo ra “không gian” lành mạnh cho con.
Trong năm qua, trên nhiều diễn đàn đã rất "nóng" về giáo dục lịch sử trong trường học, là người nghiên cứu về giáo dục lịch sử hẳn là anh đã tham góp nhiều ý kiến?
Trong vai trò là người bước đầu nghiên cứu tôi đã có đóng góp ý kiến, cung cấp thông tin qua nhiều kênh, diễn đàn khác nhau như báo chí, hội thảo, mạng xã hội… để góp phần thúc đẩy sự trao đổi, tranh luận và nâng cao nhận thức về giáo dục lịch sử.
Trọng tâm của tôi là giới thiệu giáo dục lịch sử ở Nhật Bản, chú ý những bước đường họ đã trải qua, thành tựu họ đạt được và cả những vấn đề họ đang gặp phải. Rất thú vị là những vấn đề họ đã trải qua thì hiện tại Việt Nam đang đối mặt.
Trước thực trạng giáo dục lịch sử như ở ta hiện nay thì theo anh cần một giải pháp nào để giáo dục lịch sử đạt kết quả tốt?
Muốn cải thiện tình hình giáo dục lịch sử hiện tại ở trường phổ thông hiện nay thì điều cần thiết là phải đưa giáo dục lịch sử ở Việt Nam xích lại gần, hòa vào dòng chảy chung của thế giới.
Chẳng hạn trên thế giới, tính đa dạng của nhận thức lịch sử hay việc học tập lịch sử của học sinh ở trường học được thực hiện giống như quá trình tác nghiệp của nhà sử học với các thao tác tìm kiếm, xử lý, phê phán tư liệu, thiết lập giả thuyết, văn bản hóa nhận thức từ tư liệu và thể hiện nó dưới nhiều dạng khác nhau (bài báo, tiểu luận, bài phát biểu, tạp chí, tập san, áp phích…) rất phổ biến nhưng ở Việt Nam nó vẫn tương đối xa vời.
Cách thức truyền đạt nhận thức lịch sử và quan điểm lịch sử cố định của giáo viên làm học sinh chán nản. Học tập lịch sử phải hướng trước tiên vào việc hình thành nhận thức lịch sử khoa học và phẩm chất công dân thay vì những điều to tát, trừu tượng, xa xôi. Một nền giáo dục nếu không tạo ra được những công dân hành động thì khó có thể nói là thành công.
Chuyện du học sinh ở hay về cũng đang được bàn thảo sôi nổi, ý kiến của anh về vấn đề này như thế nào?
Chuyện đi hay ở thực ra không có một đáp số chung cho tất cả các trường hợp. Suy cho cùng chỉ người trong cuộc mới có đủ thông tin để phán đoán quyết định xem nên về, hay ở.
Trong thế giới toàn cầu “siêu không gian” như bây giờ có lẽ không nên quá nhấn mạnh chuyện về hay ở. Vượt qua chuyện về hay ở là mục đích sống, lẽ sống của những người được học hành. Anh học rồi anh dùng những điều học được để “làm quan”, để cầu danh lợi hay anh hướng đến kiếm tìm hạnh phúc cho bản thân mình và cộng đồng mình quy thuộc vào?
Bản thân tôi thì tôi lựa chọn “về”. Đơn giản vì tôi nhớ ngôi nhà nhỏ nơi tôi lớn lên và tôi thích làm giáo viên, một nghề mà trở về sẽ thích hợp hơn.
Đọc bài tản văn "Mùi của cố hương" đăng trên báo Bắc Giang mới đây thấy rõ nỗi nhớ da diết thầy mẹ, gia đình, làng quê của anh. Tết đến Xuân về, thôn Sấu và quê hương Bắc Giang đang gợi cho anh những điều gì?
Tản văn đó tôi viết về thôn Sấu, xã Liên Chung (Tân Yên), nơi tôi sinh ra và ở hết thời trung học. Thường thì người ta sẽ chỉ nhớ nhất những gì trải qua thời thơ ấu. Bởi thế gia đình, quê hương có vị trí đặc biệt. Tôi cũng không là ngoại lệ.
Tôi đã đón nhiều cái Tết xa nhà. Mỗi lần Tết đến mà ở Nhật có tuyết rơi thì nỗi nhớ nhà càng ghê gớm. Thường thì khi nhớ Tết chẳng hiểu sao tôi lại hay nhớ những kỷ niệm về Tết hồi tôi con nhỏ hay học tiểu học. Khi ấy, nhà rất nghèo cũng có thể gọi là đói. Xung quanh làng ai cũng thế cả.
Nhớ cảnh làng thu hoạch hành trong tiết trời mưa phùn. Nhớ kỷ niệm đi chợ Than với mẹ bán bưởi. Nhớ cảnh ngồi xem bố nháo than, đắp lò luộc bánh. Cảm giác được mẹ mua cho quần áo mới cũng rất khó quên. Có những thứ giản dị bình thường không để ý nhưng lớn lên, trải qua những sóng gió của cuộc sống tự lập sẽ thấy rất quý.
Những trải nghiệm ở thôn Sấu là những thứ như thế. Và khi nhớ tới những kỷ niệm ấy thì đương nhiên nó sẽ dẫn tới mơ ước. Đấy là mơ ước quê hương sẽ ngày một văn minh, rút ngắn khoảng cách với thế giới.
Xin cảm ơn anh, chúc anh và gia đình có một năm mới hạnh phúc và thành công!
Trần Đức (thực hiện)