|
Tuổi trẻ thắp nến tri ân các anh hùng liệt sĩ. Ảnh: Lynh Vy. |
Một tổn thất lớn đối với đất nước ta, quân đội ta. Những ngày tháng 6 vừa qua, trái tim trong lồng ngực mỗi người dân đất Việt như ngừng đập khi hay tin máy bay SU 30 của Không quân Việt Nam gặp nạn. Rồi sau đó, máy bay CASA-212 chở theo chín quân nhân đi tìm đồng đội cũng bị rơi. Mười phi công và cán bộ, chiến sĩ trên hai chiếc máy bay đã anh dũng hy sinh! Lễ tang Đại tá Trần Quang Khải, người con quê hương Bắc Giang đã được tổ chức trọng thể trong niềm xúc động khôn nguôi.
Và ngày 30-6, lễ viếng các đồng chí trên phi hành đoàn CASA- 212 diễn ra trong một ngày mưa Hà Nội. Mưa kéo dài suốt buổi sáng. Người dân Hà Nội dậy từ rất sớm xếp hàng dài hai bên đường đưa tiễn các anh. Những trái tim đau buốt. Những cặp mắt rưng rưng! Sự hy sinh trong thời bình, vừa bất ngờ, đau xót và không khỏi khiến chúng ta đặt một câu hỏi: Sao lại phũ phàng, vô lý như thế?!
Câu hỏi này cha mẹ, cô bác, anh chị em ta đã từng hỏi trong suốt đằng đẵng mấy cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Và giờ đây lại nhói lên, day dứt, dằn vặt, xót xa. Chúng ta vẫn đi tìm câu trả lời trong suốt chiều dài lịch sử, trong chiều sâu văn hoá dân tộc, trong các Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn, Đường Chín... Những con số như găm vào tim vào óc: Mười nghìn ngôi mộ ở mỗi Nghĩa trang này, “mười nghìn bát hương/ mười nghìn ngôi sao cháy/ mười nghìn đôi vai từng gánh Trường Sơn” (Khát vọng Trường Sơn - Nguyễn Hữu Quý). Một người lính khác, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, viết trong Trường ca sư đoàn: “Nếu tất cả trở về đông đủ/ Sư đoàn tôi sẽ thành mấy sư đoàn”. Chiến tranh là thế. Những mất mát không gì so sánh nổi. Ta đau xót nhớ tới những con số trĩu nặng hai thế kỷ: Cả nước có hơn 1,146 triệu liệt sĩ, gần 782 nghìn thương binh, hơn 50 nghìn Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng.
Đứng lặng trong chiều Nghĩa trang Trường Sơn, tôi từng nghe một nhà báo nước ngoài bình luận: “Mỗi tấm bia trong nghìn tấm bia như những cuốn sách lưu giữ hài cốt của trí tuệ. Thật tiếc cho những tài năng đã hy sinh”. Ngay tức khắc một nhà báo, nhà thơ của binh đoàn Trường Sơn lên tiếng: Tôi lại nghĩ, mỗi tấm bia trong nghĩa trang liệt sĩ giống như cuốn sách mở. Cuốn sách ấy mở về quá khứ, mở về tương lai. Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết những dòng nặng suy tư: Thời chiến tranh chống Mỹ cứu nước,ông từng viết những câu thơ cổ vũ hai nghìn người đêm ấy ra trận, chỉ có ba mươi người về. Còn sau này, hòa bình, thống nhất, người lính cởi quân phục, hạ ba lô, chờ ở nhà thơ câu trả lời làm thế nào để cuộc sống bớt gieo neo. Nhà thơ xấu hổ vì không trả lời được. “Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ/ Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời/ Tôi ú ớ/ Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong/ Tôi xấu hổ”.
Chúng tôi nhìn những tấm bia từng hàng từng hàng trắng lóa, trắng đến lạnh người, cắt da cắt thịt và xin mượn câu nói của nhà báo nhà thơ để nhắc lại một niềm tin, một khát vọng của những người đang sống. Rằng trong chiến tranh những gì đã tan vào đất đai, sông núi thì chẳng thể nào lấy lại. Những người hy sinh là để Tổ quốc sống mãi. Điều thiêng liêng còn mãi là tình yêu đất nước, là tình nghĩa con người, là đạo lý nhớ về nguồn cội. |
Sau chiến tranh. Những người lính trở về trong vòng tay mẹ đã là một hạnh phúc lớn. Còn biết bao đồng đội nằm lại trên các nẻo đường đánh giặc. Và biết bao người trở về với cơ thể không lành lặn. Tôi thường nghĩ có hai thứ vô danh, đó là, những người hy sinh chưa rõ tên. Trên tấm bia trong nghĩa trang ghi rõ “Liệt sĩ chưa rõ tên”. Một thứ vô danh khác, đó là những người đang âm thầm lao động, công tác, quên đi những hy sinh, mất mát đời thường, quên đi những tấm huân chương, quên đi những ưu tiên này nọ, bởi họ biết đất nước còn nghèo.
Dù nhân dân ta với đạo lý “uống nhớ nguồn”, không bao giờ quên những người đã cống hiến, hy sinh vì đất nước, nhưng người lính trở về thì lại nghĩ khác. Họ bước vào cuộc chiến đấu mới, bằng trí tuệ và sức lực của mình. Nhiều người không thích được gọi là thương binh, họ phải là, luôn là người lính. Thương binh Nguyễn Văn Mai ở Yên Thế (Bắc Giang) là một người như thế. Là thương binh hạng ba, mất sức 61%, anh Mai mạnh dạn vay vốn mua một chiếc xe tải để chở hàng, thế rồi từng bước phát triển thành hợp tác xã vận tải. Sau gần 20 năm, bây giờ hợp tác xã đã có hàng trăm phương tiện, gồm xe khách, xe tải, taxi, các loại xe chuyên dùng... Điều anh Mai vui nhất là lo được việc làm cho nhiều người. Đấy chính là niềm vui của người lính, không bao giờ mất niềm tin, sống có bạn bè, đồng đội, sống vì mọi người.
Trên khắp các miền quê đất nước, không hiếm những thương binh giàu nghị lực như Mai. Và cũng không hiếm những cựu chiến binh hằng ngày lặng lẽ “đi tìm đồng đội”, những người bạn lính “bao gạo gối đầu, chăn đắp chung” còn nằm lại trong những cánh rừng già Trường Sơn, nơi bưng biền Đồng Tháp, hay trên những nẻo đường xa xôi đất bạn. Chiến tranh đã đi qua mấy chục năm rồi. Nhưng trong những giấc mơ người lính vẫn còn dội lên tiếng bom, tiếng súng, và lời dặn đứt quãng của người lính ngã xuống trên chiến hào sạm sầm bụi lửa.
Một cán bộ làm công tác chính sách ở Bộ Quốc phòng có lần tâm sự với tôi: Mọi chính sách, chế độ đãi ngộ đối với thương binh, gia đình liệt sĩ khó có thể coi là đầy đủ, và không bao giờ đầy đủ. Dẫu rằng chúng ta đã liên tục sửa đổi, bổ sung cho phù hợp tình hình mới. Tại nhiều hội thảo, hội nghị tổng kết, chúng ta đều nhấn mạnh, cần làm tốt việc xã hội hóa công tác chăm sóc thương binh, gia đình chính sách và người có công. Các chương trình tình nghĩa phải được mở rộng, phong phú, đa dạng và thiết thực hơn nữa. Các chương trình tình nghĩa, như xây dựng “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”, nhà tình nghĩa, chăm sóc, giúp đỡ thương binh, bệnh binh nặng…cần được thực hiện thường xuyên, chủ động và sáng tạo.
Tuy nhiên, đó đây vẫn còn nhiều chuyện chưa vui. Đau lòng nhất là chuyện lợi dụng niềm tin của gia đình liệt sĩ để trục lợi. Rồi chuyện tham ô, bớt xét tiêu chuẩn, kéo dài thời gian, chậm trễ trong việc xét công nhận đối với Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và các đối tượng chính sách khác.
Gần đây, nhiều cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang hy sinh trong huấn luyện, bảo vệ biên giới, hải đảo, phòng chống tội phạm, cứu nạn, cứu hộ… đã được các cấp, ngành, chính quyền các địa phương quan tâm chu đáo. Sự hy sinh dũng cảm của các chiến sĩ trong thời bình gây xúc động lớn trong lòng dân. Đảng, Nhà nước, quân đội, công an đã kịp thời có những chủ trương, chính sách kịp thời, như truy phong quân hàm trước niên hạn đối với cán bộ, chiến sĩ hy sinh; tuyển dụng vợ con họ vào làm việc trong đơn vị, trong các doanh nghiệp nhà nước; hỗ trợ kinh phí để xây dựng nhà ở...
Điều đáng ghi nhận là cả hệ thống chính trị, các đoàn thể, doanh nghiệp đã cùng vào cuộc, chia sẻ những mất mát lớn lao, giúp người thân của các liệt sĩ bớt khó khăn, sớm ổn định cuộc sống. Trường hợp cô giáo Trần Thị Hà, vợ của Liệt sĩ Trần Quang Khải được Chủ tịch UBND TP Hà Nội quyết định tuyển đặc cách vào dạy tại Trường THPT Chu Văn An được dư luận hết sức hoan nghênh. Đây cũng không phải là trường hợp duy nhất từ trước tới nay. Vợ con của chín quân nhân trên phi hành đoàn CASA-212 hy sinh trong khi làm nhiệm vụ cũng đã và đang được các đơn vị, tổ chức, đoàn thể chính trị xã hội quan tâm giúp đỡ.
Những cuốn sách mở về tương lai. Chúng tôi nhìn những tấm bia từng hàng từng hàng trắng lóa, trắng đến lạnh người, cắt da cắt thịt và xin mượn câu nói của nhà báo nhà thơ để nhắc lại một niềm tin, một khát vọng của những người đang sống. Rằng, mỗi người yêu nước hãy xích lại gần nhau hơn nữa, để gìn giữ non sông này, không để kẻ thù cướp đi một tấc đất, một sải biển. Rằng trong chiến tranh những gì đã tan vào đất đai, sông núi thì chẳng thể nào lấy lại. Những người hy sinh là để Tổ quốc sống mãi. Điều thiêng liêng còn mãi là tình yêu đất nước, là tình nghĩa con người, là đạo lý nhớ về nguồn cội
Tháng 7-2017
Hải Đường