Thứ năm, 25/04/2024
Bắc giang 25 °C / 25 - 33 °C
Hotline: +84.0204.3 856 624

Văn hóa
Chia sẻ:
icon
0.5 1.0 1.5

Trạng nguyên Giáp Hải - nhà văn hóa lớn

Cập nhật: 07:00 ngày 12/03/2017
(BGĐT) - Giáp Hải sinh năm 1517, là con Giáp Hà, người xã Dĩnh Kế, huyện Phương Sơn (theo bia mộ Giáp Hà tìm thấy năm 1998 tại thôn Cốc, xã Dĩnh Trì - nay Dĩnh Kế và Dĩnh Trì đều thuộc TP Bắc Giang). Đây là kết quả khảo cứu của Lâm Giang trong công trình “Trạng nguyên Giáp Hải”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2009. 

{keywords}

Bia thờ Trạng nguyên Giáp Hải ở xã Dĩnh Trì (TP Bắc Giang).

Khi còn niên thiếu ông đã chứng kiến xã hội loạn ly rồi sự biến Mạc Đăng Dung chiếm ngôi nhà Lê (1527). Những năm đầu, nhà Mạc có một số cải cách quan trọng, thu hút nhiều người tài đi thi và ra làm việc nước. Năm 21 tuổi, Giáp Hải đỗ Trạng nguyên vào đời Mạc Dăng Doanh (1538). Ông đã phò nhà Mạc 49 năm và từng giữ nhiều chức vị cao, đặc biệt là Thượng thư sáu bộ (Chưởng lục Bộ sự - nắm việc sáu Bộ) kiêm Đông các Đại học sĩ, coi việc ở tòa Kinh diên, tước Kế Khê bá, Thiếu bảo Luân Quận công, Thái bảo Sách Quốc công, được vua ban lá cờ thêu câu đối: Trạng đầu Tể tướng đẩu Nam Tuấn/Quốc lão Đế sư thiên hạ tôn (là Trạng nguyên, Tể tướng cao đẹp như sao Đẩu trời Nam/ Bậc Quốc lão, thày dạy qua thiên hạ đã tôn vinh).

Triều Mạc chỉ tồn tại 65 năm (1527-1592) ở kinh thành Đông Đô (Thăng Long) đã phải chịu sức ép đe dọa của nhà Minh phương Bắc với chiêu bài “phù Lê diệt Mạc” mà thực chất là muốn xâm lược nước ta một lần nữa sau khi thất bại cuộc xâm lược “phù Trần diệt Hồ” (1407-1427) mặt khác nảy sinh quân Lê Trung Hưng từ Lào vừa cầu viện nhà Minh vừa tiến về Nghệ An, Thanh Hóa lập ra Nam triều chống Bắc triều (Mạc). Mạc Đăng Doanh mất năm 1540 thì trước đó ba năm quân Minh do Cửu Loan làm Đô đốc, Mao Bá Ôn làm Tán lý quân vụ tiến sát cửa Nam Quan và truyền hịch bắt cha con Mạc Đăng Dung và sau đó ba năm quân Lê Trung Hưng do Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm (bố vợ và con rể) chỉ huy thu phục được Tây Đô (Thanh Hóa). Vận mệnh nhà Mạc ngàn cân treo sợi tóc nhưng vận mệnh đất nước được đặt lên trên hết. 

Trước nguy cơ giặc ngoại xâm tràn sang, vua tôi nhà Mạc nhẫn nhục chịu tội với quân Minh và dùng lời lẽ thiệt hơn để quân Minh không vượt qua biên giới. Kết quả là biên giới không có nạn binh đao mà Mạc Đăng Dung còn được vua Minh phong làm Đô thống sứ, hàm quan nhị phẩm nhà Minh. Tài biện luận ngoại giao đó là do các bề tôi nhà Mạc làm nên nhưng nổi bật là tài năng của Giáp Hải, vị tân Trạng nguyên. Sự đối đáp mềm dẻo mà cứng cỏi của ông được tương truyền qua sự việc Mao Bá Ôn và ông làm thơ Vịnh Bèo. 

Để thăm dò tinh thần vua tôi nhà Mạc và cũng là thể hiện sức mạnh, Mao Bá Ôn làm bài thơ Bèo (Bình thi) gửi vua tôi nhà Mạc. Bài thơ chữ Hán, dịch nghĩa như sau: Xương bé như cái kim trôi theo ruộng nước/ Đến bên mới thấy rễ chẳng cắm sâu/ Gốc rỗng không mà thân cũng rỗng không/ Không dám sinh ra cành lá thì đâu dám có lòng ruột/ Chỉ biết tụm lại đâu biết tản ra/ Chỉ biết nổi lên, đâu biết chìm xuống/ Gặp trận cuồng phong giữa trời/ Bị quét ra hồ ra bể, khó mà tìm thấy. Giáp Hải họa lại thơ chữ Hán, dịch nghĩa là: Dày như váy gấm đến kim cũng không xỏ qua được/ Mang áo giáp liền sát (nên) rễ chẳng cần phải ở sâu/ Đường đường tranh lấy mặt nước với mây trắng/ Sóng nước không để mặt trời soi xuống/ Sóng ngàn trùng cũng không phá nổi/ Muôn trận gió thổi mãi mà vẫn không bị chìm/ Không ít cá rồng ẩn nấp dưới đó/ Thái công Lã Vọng cũng không cách nào câu tìm được (cá rồng) đâu.

Vừa mới đỗ Trạng nguyên đã gặp thử thách lớn, Giáp Hải thể hiện lòng tự tôn dân tộc qua bài thơ Vịnh Bèo, rồi lòng yêu nước thương dân của ông còn thể hiện qua các bài thơ viết về sau. Đến thành nhà Hồ, nhớ lại cuộc xâm lăng của quân Minh ngày xưa bắt Hồ Quý Ly, đô hộ nước ta, ông bâng khuâng “Ai đem chữ Hồ chép vào sử nước/ Một chữ như sương mùa thu lưu lại muôn đời…”, ông cảm khái trước cảnh hoang tàn của thành, không giấu nổi lòng căm thù giặc Minh thuở đó “Nhìn những lá úa vàng nhớ lại mối hận cũ…” và khẳng định “Thành xây càng cao mối thù càng nặng mãi”, “Vỗ về dân là vua, ngược đãi dân là kẻ thù”. 

Đến Lam kinh thăm đền miếu thờ Lê Thái Tổ - Lê Lợi, vị anh hùng dân tộc đánh đuổi quân Minh xưa kia, ông không khỏi chạnh lòng “Những tấm bia nằm đổ gợi nỗi thương cảm/ Công đức bình Ngô (thuở nào) còn như màu xanh (của rừng kia)…, ông xúc động làm mấy bài thơ liền về phong cảnh đất Lam Sơn. 

Qua bài “Phụng sắc Bắc sứ thuật hoài” (Vâng mệnh vua đi sứ phương Bắc kể lại nỗi lòng), Giáp Hải thường tâm niệm “Xong việc, thành công, nào mong gì hơn?” và chỉ mong “Thiên tử được thái bình, dân được thái bình”. 

{keywords}

Đường Giáp Hải, thuộc khu vực phường Dĩnh Kế (TP Bắc Giang).  Ảnh: Hà Mi.

Cuộc chiến giữa Nam triều (Lê Trung Hưng) và Bắc triều (Mạc) kéo dài hết năm này sang năm khác lại thêm nạn phương Bắc đe dọa xâm lăng khiến thơ Giáp Hải, tâm sự của Giáp Hải thường nói tới hai chữ “thái bình”. Nhà Mạc cố gắng làm sao cho quân Minh dừng chân ở bên kia biên giới, còn họ Nguyễn, họ Trịnh giương cờ phù Lê và cầu viện nhà Minh mà nhà Minh cũng giương cờ phù Lê, cơ hồ nhà Mạc mắc tội tiếm quyền rất đáng trừng phạt. Song những người thức thời ngày đó hiểu rằng cuối thời Lê sơ thối nát nếu Mạc Đăng Dung không chấm dứt tình trạng đó thì không biết đất nước sẽ đến đâu, xã hội chìm đắm đến bao giờ. Vì thế họ hy vọng nhà Mạc hưng thịnh để dân lành được yên ổn, thái bình. 

Sau năm 1541, hai triều vua đầu nhà Mạc qua đi, Giáp Hải là đại diện cho những người muốn phò Mạc, giúp nhà Mạc vững mạnh lên, gánh nhiệm vụ lịch sử đương thời nên hết lời khuyên vua làm những điều tốt có lợi cho dân cho nước. Lời khuyên rất thẳng rất thật, nhất là dưới triều Mạc Mậu Hợp chính sự suy yếu không khác gì cuối triều Lê Sơ. Năm 1578, Giáp Hải dâng sớ cảnh tỉnh nhà vua 6 điều đáng sợ. 

… Nay chính sự mỗi ngày một bậy… làm lễ tiên tổ… lễ vật kính dâng cẩu thả. Ấy là một điều đáng sợ.

Nay những người bên cạnh bệ hạ quen thói nịnh hót, dỗ dành chơi bời để cầu hợp ý bệ hạ. Cung cấm là chỗ rất nghiêm mà nay ra vào không cấm kỵ, tuyên bố mệnh lệnh và thu nạp lời can là việc rất cẩn thận mà nay bị che lấp không thông. Ấy là hai điều đáng sợ.

… Nay các quan trên dưới, người không ham lợi mười phần chỉ được hai, ba, còn ngoài ra đắm đuối về lợi cả. Nào nhũng lạm quan tước, nào chiếm đoạt ruộng đất, các quan phiên trấn sách nhiễu và mua rẻ của dân không việc gì là không làm. Ấy là ba điều đáng sợ.

Nay xem quan lại trong ngoài, kể là chính đáng thì mười người chỉ độ hai, ba, còn đều là gian tà cả. Khi có sắc chỉ truyền việc gì thì quan lại sách nhiễu. Khi có kiện cáo to nhỏ thì đòi tiền đút lót, không biết đâu là cùng. Ấy là bốn điều đáng sợ.

… Nay việc công, việc tư đều bị sách nhiễu khổ sở, dân khó lòng sống được, vậy thì nước nương tựa vào ai? Ấy là năm điều đáng sợ.

Nay tướng soái trái ngược nhau, mỗi người một ý, quân sao thắng được? Ấy là sáu điều đáng sợ.

Ngoài ra còn nhiều việc trái ngược đạo lý không kể xiết được… xin bệ hạ tự răn, lo sợ, thay đổi việc chính thối nát. Khi lòng dân đã hòa thì ý trời cũng thuận. Nếu bệ hạ chỉ say đắm về sự yên vui, không chịu răn chừa sửa đổi thì sẽ có ngày suy vong, không sao giữ được nữa”.

Năm 1586, Giáp Hải lại có sớ cho Mạc Mậu Hợp. Ông lại cảnh tỉnh vua: … "Tính việc trị an, cung kính phép trước, chuyên về chính học, thân cận người ngay, thực ý ngay lòng, phòng sai ngăn dục, không gần sắc đẹp hát hay, không gây lợi về tiền của, không ham rượu, không mê nhạc, ngăn kẻ nịnh nọt, răn sự rong chơi…". 

Đọc thơ văn của Giáp Hải mới thấy ông lo cho số phận đất nước lúc ấy hơn là lo cho số phận một triều đại. Các trí thức triều Lê Trung Hưng lên án nhà Mạc nên phê phán những người phò nhà Mạc như Giáp Hải. Nhiều truyền thuyết hư cấu về thân phận, gia đình ông được lưu truyền và viết sách để đời. Nếu năm 1998 không tìm thấy tấm bia hộp ở thôn Cốc, xã Dĩnh Trì, huyện Lạng Giang (nay thuộc TP Bắc Giang) thì mọi người vẫn theo truyền thuyết Giáp Hải là con hoang của bà bán nước ở Bát Tràng, huyện Gia Lâm còn bố là một thương nhân người Dĩnh Kế đã bắt trộm về làm con nuôi. Nay được văn bia chỉ rõ cụ Giáp Hà, bố Giáp Hải, người Dĩnh Kế là một nhà nông giàu có ham đọc sách, làm điều nhân, thi đỗ lực điền, có vợ thứ họ Hoàng (đoạn dưới bia lại viết là họ Đỗ!) sinh được 2 trai, 1 gái, Giáp Trừng là con lớn (tức Giáp Hải vì kỵ húy vua Mạc Phúc Hải nên đổi là Giáp Trừng). 

Truyền thuyết còn nói Giáp Hải tàn nhẫn giết học trò, làm đường để triệt long mạch thi cử của một làng… Nếu không tìm hiểu kỹ thân thế sự nghiệp của Giáp Hải, chúng ta sẽ không tỉnh táo trước những thuyết phong thủy, thuyết ác giả ác báo, tín ngưỡng hoang đường vây quanh ông bao đời nay, dễ bị ngộ nhận, không thấy được sự đóng góp của ông, vai trò của ông trong lịch sử đương thời phức tạp, gay gắt, mâu thuẫn thù trong giặc ngoài…

Với những đóng góp của mình, Giáp Hải (1517-1586) là nhà văn hóa lớn thời Mạc cũng là nhà văn hóa lớn thế kỷ XVI trong lịch sử nước ta. TP Bắc Giang có đường phố, Trường THPT mang tên ông.

Nguyễn Đình Bưu

Chia sẻ:

Ý kiến bạn đọc (0)

Bình luận của bạn...