Thứ tư, 24/04/2024
Bắc giang 23 °C / 24 - 32 °C
Hotline: +84.0204.3 856 624

Văn hóa / Tác giả, tác phẩm
Chia sẻ:
icon
0.5 1.0 1.5

Mùa nhãn

Cập nhật: 07:00 ngày 27/04/2019
(BGĐT)- Năm ấy được mùa nhãn. Chập tối gió ngưng lại. Mùi nhãn chín dậy lên phủ khắp làng. Thứ mùi thơm ngấm sâu vào họng ngọt như vừa ăn kẹo. Tôi chạy ùa về nhà đầu tóc dính bết mồ hôi, quần áo xộc xệch vì bọn tôi vừa xong một trận "bắn nhau chí chết" bằng súng dọc chuối.

Bà tôi đứng chặn từ cửa. Bà quát “Mày ở đâu ra thế? Nhà cô Tơ vừa sang mách chúng mày vặt trụi cả cây chuối nhà cô ấy. Liệu hồn đấy nghe con”. Rồi bà nhẹ nhàng bảo “Vào ăn cơm nhanh lên còn ra ngoài đình”. Tôi hỏi lại “Làm gì hả bà?”. “Còn làm gì nữa", bà tôi tiếp: "Tao nghe phổ biến tối nay ai cũng phải ra ngoài đình làng”.

{keywords}

Minh họa: ĐINH HƯƠNG

Sân đình tối nay nhộn nhịp người lớn người bé, tiếng hỏi nhau có chuyện gì ầm ĩ. Đèn đóm chao qua chao lại hệt như có hội. Lợi dụng đám đông còn đang láo nháo, tôi kéo tay thằng Việt, bảo nó: “Mình trèo lên cây nhãn góc đình đi”. Thằng Việt rụt rè hỏi lại “Trèo lên đấy làm gì? Mà tao sợ bị đánh lắm”. Thằng Việt dù có lưỡng lự nhưng không cưỡng được cái kéo tay của tôi, nó ậm ừ quan sát mọi người rồi mạnh bạo hẳn lên “Trèo thì trèo”.

Chúng tôi chọn đám lá rậm rạp nhất của cây nhãn rồi ngồi giấu mình trong đó. Tiếng người nói dưới sân đình bỗng to hẳn. Tiếp đó rộ lên như có ai đang mắng mỏ. Tôi vén cành nhãn che ngang mặt cố cúi xuống trông ra sân đình. Dân cả làng ngồi đen ngòm thành từng đám. Ngay trước cửa đình có ai đó đang đứng nói cạnh một chiếc bàn mộc. Cây đèn bão đốt bằng dầu ma dút tỏa khói làm người đứng nói chốc chốc chụm tay húng hắng ho. 

Nhưng thái độ qua cử chỉ có nhiều phần quyết liệt, tôi tự nhiên nghe rất rõ: “Với những người đã biến chất sinh hủ hóa, tôi đề nghị bà con cần lên án. Chúng ta đấu tranh vì quyền lợi và sự bình đẳng nam nữ. Một người chồng, một người cha như vậy sẽ không có chỗ đứng trong giai cấp chúng ta”. Đám đông nhao nhao hẳn lên. Có ai đó nhanh tay cầm cây đèn bão soi xuống gầm bàn. Ở đấy có một người đàn ông ngồi ôm gối, đầu cúi gằm. Cây đèn bão được đưa sát vào hơn nữa, người đàn ông tội lỗi như muốn chui vào gầm bàn. 

Đám người ồn ào “Phải kiểm thảo. Phải loại bỏ”. Có ai đó ném một vật gì vào gầm bàn, tức thì nhiều thứ được ném vào đó. Bị kích động bởi sự kiện đầy hiếu kỳ ấy, tôi hét to “Việt! Cùng tao ném vỏ nhãn vào tên kia”. Hai thằng chúng tôi vừa hò hét vừa lôi từ trong bụng áo và ném thẳng vỏ nhãn về phía trước. “Có kẻ ăn trộm nhãn đình! Có kẻ ăn trộm nhãn đình!”. 

Mọi người đã phát hiện ra chúng tôi và đổ xô về phía cây nhãn. Từ gầm bàn, người đàn ông tội lỗi cũng ngẩng mặt lên. Ánh sáng đỏ lòe của cây đèn bão cũng đủ để nhận mặt người ngồi như nấp dưới gầm bàn. Tôi kêu lên “Hình như thầy mày”. Thằng Việt cũng kêu lên “Thầy tao!”. Mọi người dưới sân đình chen nhau í ới, có người còn ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì đã làm đứt cuộc kiểm thảo. Lợi dụng cơ hội lẫn lộn đó, tôi giục “Chuồn mau!”. “Nhưng thầy tao?", thằng Việt hỏi lại. "Còn thầy tao mà”. Tôi hét lên: “Thầy thầy cái gì. Không chuồn mau họ kéo đến đánh chết bây giờ”. Hai thằng tụt xuống, chạy biến vào bóng tối.

Tách lối mòn ven cánh rừng khét trơ cành cây cháy vì bom, tôi dìu thằng Việt ngồi tựa vào một hốc đá nhám khói đen sì. Nó đang lả đi, mặt tái dại vì mất nhiều máu. Nhìn nó đầu ngoẹo sang bên phải, mồm há ra thở, tôi vừa thương lại vừa giận. Đêm hôm qua nó thò đầu vào võng tôi, nói đủ nghe “Mai còn được nghỉ. Mày báo là tao đi kiếm rau nhé”. Tôi ậm ừ “Mày đi đâu”. Nó nói lại “Bảo tao đi kiếm rau là được”. Đêm yên tĩnh hiếm hoi ngoài mặt trận đã nhanh chóng lôi tôi vào giấc ngủ.

Thằng Việt chợt cựa mình nhăn mặt ú ớ. Gió chiều thổi rờn rợn thoảng lên một thứ mùi tanh tanh lờm lợm. Thằng Việt hết ú ớ, tôi giật mình thấy nó mở mắt nhìn tôi trừng trừng như muốn nói. Một tay đỡ người nó đang ưỡn lên từng cơn co giật đau đớn, một tay tôi lần lần cố tìm cách tháo chiếc bi đông giắt bên dây lưng. Những giọt nước cuối cùng trong bi đông được cả hai tay tôi dốc ngược như đổ vào miệng thằng Việt. Nó chép chép miệng, cục yết hầu đưa lên đẩy xuống to và nhọn, trông như một cái trục khuỷu của tay quay cơ khí. Tôi động viên nó “Đau lắm hả? Tao sẽ đưa được mày về đơn vị”. Nó gật gật đầu, mặt méo xệch. Chiều nhập nhoạng phủ một màn ám khói lên mặt thằng Việt. Từ rất xa vọng lại những chuỗi nổ của bom.

Tôi nhỏm dậy định xốc thằng Việt đi tiếp. Thằng Việt bỗng buông thõng người, nó níu tay tôi ý kéo ngồi trở lại, nói phều phào “Không... không... kịp... nữa.... nữa.... đâu… mày… mày… cho .... tao… nói… nói…”

Trời tối hẳn…

Ông Oa vội giơ bàn tay bịt ngang miệng tôi, giọng như sắp khóc: “Đó là năm bao nhiêu hả chú?”. Tôi trả lời giọng cũng nghèn nghẹn: “Em làm sao quên được. Đấy đang giữa mùa mưa năm bảy mốt, mùa ấy ở quê mình nhãn cũng bắt đầu chín”. Ông Oa bóp chặt miệng mình, đầu cúi xuống che những giọt nước mắt đang ứa ra từ khóe mắt. Chúng tôi cùng im lặng. Ngoài kia nắng mang màu hoa lý và phủ vàng nhẹ lên khắp các đầu cây. Tôi chợt chạnh buồn và ái ngại nhìn ông Oa đang quệt tay lau nước mắt.

Ba hôm trước, tôi tình cờ gặp được ông Oa sau ba mươi sáu năm ông mất tích. Câu chuyện “kiểm thảo” tối năm nào ở ngoài sân đình cả tôi, cả làng Nhĩ Phố đã quên phắt. Cơn lốc chiến tranh cùng bao sự biến đổi đã không cho phép ai tĩnh tại mà nhìn lại những gì của quá khứ. Sau hồi tru tréo của dân làng phát hiện ra có kẻ ăn trộm nhãn đình, tôi và thằng Việt cắm đầu cắm cổ chạy. Cuộc “kiểm thảo” bị ngừng lại đột ngột và chuyển hướng sang cuộc truy lùng “kẻ trộm”. Đến khi chả ai bắt được ai và mọi người ai về nhà nấy, cuộc "kiểm thảo" tình cờ bị giải tán khi chưa có hồi kết. Lúc đó dân làng mới phát hiện thấy ông Oa không còn ngồi như rúc dưới gầm chiếc bàn mộc nữa, cũng không ai thấy ông Oa trốn về nhà. Mấy ngày tiếp theo vẫn bặt tin. Những lời đồn đại bắt đầu thầm thì ở mọi ngõ ngách. Thằng Việt ngồi khép nép trên giường nhà tôi, mắt ráo hoảnh.

Tôi cùng mấy thằng trong tiểu đội đứng lặng bên mộ thằng Việt. Đống đất mới lấp còn tươi màu đỏ. Trên mộ nó, tôi đã khéo léo chôn một cây cọc nhỏ làm dấu. Không có hoa, chỉ vài cành lá nhuốm vàng sót lại, trông đơn điệu hết chỗ nói. Tất cả im phăng phắc. Tiếng chính trị viên đọc rành rọt: “Căn cứ vào kỷ luật chiến trường, nay cảnh cáo quân nhân Khiếu Quang Việt đã vi phạm…”. Tai tôi ù lên không còn nghe gì được nữa. Đống đất nhòe đi và biến mất. Tôi hốt hoảng trấn tĩnh lại: “… Tôi thấy thật là xấu hổ khi trong đơn vị lại có một quân nhân tự do. Các đồng chí nên nhớ rằng chiến trường là nơi rèn luyện cao nhất. Bất cứ một hành vi vô kỷ luật nào cũng sẽ được bài học như bài học của quân nhân Việt”. Tiểu đội lặng lẽ giải tán, tôi ngoái nhìn nấm mộ thằng Việt một lần nữa: “Việt ơi, sao mày lại chết?”.

Sau nhiều thương vong qua các trận đánh, đơn vị tôi được lui về phía sau củng cố. Đấy chính là cái lý do để xảy ra chuyện thằng Việt. Lúc ngồi cùng thằng Việt bên hốc đá, tôi quàng tay giữ người thằng Việt giúp nó gắng qua cơn đau. Thằng Việt vất vả nói: “Hai… hai hôm trước… mày có… có nhớ không? Lúc… lúc qua đỉnh đồi 360… tao… tao thấy…”. Thằng Việt nhăn mặt, tôi bảo nó: “Mày đừng nói nữa. Nói nhiều mất sức. Gắng chịu đau để tao cõng mày về đơn vị”. Nó lắc đầu mỏi mệt “… Tao thấy đồ… của… của con gái… phơi dưới lùm… lùm cây”. Tôi gắt to “Thì ra là mày ... mày thấy con gái à? Chết rồi. Mày… mày giống... giống hệt thầy mày”. Thằng Việt níu chặt lấy tôi “Thầy tao… từ bữa ấy… chẳng… chẳng biết sống… sống chết ra sao… Tao đến… gần chỗ đó… trong… trong lán có… có hai cô gái. Họ… họ sốt rét nặng lắm… tao…”. 

Thằng Việt không nói nữa, hai mắt nó mở to vẻ mãn nguyện. Hồi lâu, hình như nó mỉm cười. Trong chút sáng sót lại của cánh rừng trụi lá, gương mặt nó hớn hở. Tôi thầm thì: “Họ còn gì để ăn không?”. Thằng Việt không nói. Tôi tiếp: “Mày… mày tệ lắm. Có thế mà cứ giấu”.

Tôi không đưa được thằng Việt còn sống về đơn vị. Dường như sức lực còn lại của mình, thằng Việt đã dành hết cho mấy câu nói với tôi. Tôi cõng xác thằng Việt đi bước thấp bước cao về đơn vị chịu kỷ luật.

Ngày hôm sau tôi xin phép chính trị viên qua đồi 360. Đó là một kho nhỏ có từ năm sáu mươi bảy. Ban đầu nó làm nhiệm vụ bảo quản lương thực. Sau, bảo quản quân trang do các đơn vị gửi lại trên đường giao liên. Khi thấy tôi vào, cả hai nữ đồng chí hỏi đồng thời: “Anh Việt đâu rồi, đồng chí?”. Họ khá ốm yếu, da xanh tái và giọng nói vẻ đứt hơi. Tôi lặng lẽ ngồi xuống chiếc ghế được làm bằng thùng đạn, nói mà không dám nhìn họ: “Việt chết rồi. Chết hôm qua, lúc ở đây về”. Cả hai như chồm người về phía tôi. “Đồng chí nói bậy. Anh Việt hôm qua ở đây còn khỏe cơ mà”. Tôi mếu máo: “Việt chết thật mà. Nó vướng lựu đạn cài dưới mé đồi”. Hai cô nhìn tôi trừng trừng rồi cùng khuỵu xuống mà ôm choàng lấy nhau, họ gào lên: “Anh Việt ơi! Bọn em hại chết anh rồi. Tại bọn em”. Tôi đỡ hai cô lên, nhìn thẳng vào hai cô, tôi hỏi lại: “Tôi… tôi không hiểu”. Một cô bình tĩnh hơn, nói: “Mấy hôm qua đây, anh Việt thấy bọn em sốt quá, anh ấy bảo để anh ấy lo cơm nước giúp. Chiều qua… Chiều qua anh ấy mang quần áo của chúng em đi giặt…”.

Tôi lặng người và ớ ra. Hóa ra sau khi xuống suối giặt giúp quần áo của hai cô, Việt đã qua bên kia suối tìm rau thật. Cậu ấy vướng phải lựu đạn do chính mấy cô gái cài đề phòng thám báo. Chính linh cảm đã giúp tôi tình cờ tìm thấy Việt trong tình trạng cuối cùng của cuộc đời.

Ông Oa run run mồi đóm vào nõ điếu cày. Tôi chuyển hướng “Ở trên tỉnh, mọi người khen bác lắm. Thật không ngờ em và bác lại nhận được nhau”. Ông Oa ngậm ngùi: “Chuyện đời dài thật đấy và ngắn thật đấy. Tối ấy tôi xấu hổ quá lại tranh thủ lúc dân làng ùa đi bắt trộm. Tôi bỏ làng lên ngược. Thằng Việt mới lên tám. Vậy chú với cháu cùng tuổi à?” Tôi gật đầu xác nhận và tiếp: “Chuyện thằng Việt coi như bác và em đã kỹ rồi. Bác kể về bác đi. Thì ít ra hôm nào về làng em còn có chuyện nói lại với bác gái”. Ông Oa mặt quay đi “Bà ấy chắc hận tôi lắm. Hồi làm bạn với mẹ thằng Việt, tôi mười bảy tuổi. Còn bà ấy đã... đã hai mươi sáu. Chuyện quê ấy mà chú”.

Khi tôi lớn lên, có hiểu biết đôi chút. Bà cho tôi biết: Ông Oa, xét trong họ là anh tôi. Hồi ông Oa đi “lính Giơ-ne”, gia đình bắt ông lấy vợ. Chẳng hiểu là cũng thích hay không dám trái ý gia đình mà ông Oa đồng ý. Người đàn bà là vợ ông, tuy tuổi đã cưng cứng nhưng được cái tính cái nết. Họ có với nhau thằng Việt. Bà tôi bảo: “Tưởng đi lính Cụ Hồ thằng Oa sáng ra, chứ ai ngờ đổ đốn. Hết hạn về làng, được tín nhiệm làm anh dân quân. Chẳng dè đâm ra phải lòng gái”. Bà tôi ậm ừ không nói nữa. Tôi cũng chỉ biết đến thế.

“Chú giờ là ông nhà báo. Chữ nghĩa chú nhiều. Chữ của chú cả thiên hạ xem. Chú cho tôi biết thế nào là tình yêu? Thế nào là số phận?”. Tôi nhìn ông Oa ngờ vực. Vẻ đáo để bất chợt của ông khiến tôi phải nghĩ lại. Ông Oa tiếp: “Âu cũng là cái số. Bỏ làng đi vì xấu hổ. Không dám về làng cũng vì trót dại. Ngần bấy năm… Chỉ trách tôi ngày ấy cả nghĩ mà đâm quẩn....”.

Ngoài kia, vườn đồi nhà ông Oa bạt ngàn cây nhãn. Những cây nhãn đang vào mùa cho quả trông không thể chê được. Tôi lựa lời “Xong vụ nhãn. Bác về thăm quê?”. Ông Oa lại ngửa cổ nhả đám khói thuốc lào nữa, nói bùi ngùi: “Cũng may là cái đêm tôi chạy đến nhà cô ấy. Chạy đến trước cửa nhà rồi mà đứng ngẩn ra chẳng hiểu là mình đến đó để làm gì. Cô ấy nhìn tôi ngơ ngác vì cũng không hiểu chuyện gì xảy ra. Thực tình lúc đó giữa tôi và cô ấy đã có ý gì đâu.... Cô ấy theo tôi cũng là cái liều... Chẳng qua cô ấy cũng có còn ai để mà dựa... Bỏ làng đi tôi và ... và cô ấy...". 

Ông Oa ngập ngừng ám chỉ người con gái mà ông đã trót giúp đỡ, đã bị làng mang ra kiểm thảo ngoài sân đình trong cái tối như định mệnh năm nào. Cũng từ tối hôm đó người đàn bà đã làm ông "khổ" ấy trở thành vợ của ông Oa. Bà ấy vừa mượn cớ xuống dưới nhà bếp làm cơm để hai anh em chúng tôi ngồi tâm sự được tự nhiên. "Cũng may là cô ấy có đem theo ít hạt nhãn". Ông Oa nháy mắt cười sảng khoái. "Thế mới có đồi nhãn như bây giờ”.

Chia tay ông Oa. Trong lòng tôi đan xen các loại tình cảm. Làng quê Muội Sảng của tôi, của thằng Việt, của ông Oa và của mọi người đang râm ran mùa nhãn chín. Đồi nhãn của ông Oa rối rít cánh ong bay. "Về chứ. Về để làng còn tha thứ cho tôi. Về làng để tôi còn thắp cho cháu nó nén hương". Ông Oa nắm chặt tay tôi lắc lắc. Ngoài kia hương nhãn chín ùa khắp đồi.

Triển lãm hơn 90 tác phẩm nhiếp ảnh, mỹ thuật chào Xuân Kỷ Hợi 2019
Hơn 90 tác phẩm nhiếp ảnh, mỹ thuật chào Xuân Kỷ Hợi 2019 được giới thiệu tới công chúng Thủ đô từ ngày 13 đến ngày 28-2 trong triển lãm "Mỹ thuật, nhiếp ảnh mừng Đảng, mừng Xuân 2019", tại Trung tâm Giám định và triển lãm tác phẩm mỹ thuật, nhiếp ảnh 29 Hàng Bài, Hà Nội.
 
Tác phẩm "Câu chuyện về Phật hoàng" đoạt giải Nhất cuộc thi ảnh 7 Ngày khám phá Tây Yên Tử
(BGĐT) - Chiều 15-3, tại Trung tâm Hội nghị tỉnh, Ban tổ chức Lễ hội Xuân và Tuần Văn hóa - Du lịch (VHDL) tỉnh Bắc Giang lần thứ nhất tổ chức trao giải Cuộc thi ảnh “7 Ngày khám phá vùng đất thiêng Tây Yên Tử”.
 

Truyện ngắn của Nguyễn Trọng Văn

Chia sẻ:

Ý kiến bạn đọc (0)

Bình luận của bạn...